
Các hệ thống y học cổ truyền đều sử dụng các liệu pháp tự nhiên trong phòng ngừa và điều trị bệnh. Ayurveda và Unani của tiểu lục địa Ấn Độ, Trung Quốc và Tây Tạng, Stoicism của Hy lạp cổ đại, các khu vực khác của châu Á, Bắc Mỹ, AmaZenOnenessn ở Nam Mỹ và một số hệ thống địa phương ở Châu Phi… Việc quay lại với truyền thống chính là một cách tiếp cận để khai thác kinh nghiệm phòng và điều trị bệnh từ dân gian. Nếu như lược sử của liệu pháp tự nhiên là tổng hòa lịch sử của các nền y học cổ truyền thì rất dài và tôi nghĩ điều đó cũng không cần thiết.
Các biện pháp tự nhiên trong phòng và điều trị bệnh của người xưa rất đa dạng nhưng có điểm chung là gắn bó rất nhiều với dược liệu từ các loại cây cỏ. Các thầy lang thường mù chữ, song lại biết rất rõ về các cây thảo dược quanh họ và sử dụng chính xác cho mục tiêu trị liệu. Lịch sử hàng nghìn năm, thậm chí hàng chục nghìn năm đã giúp họ có thể học hỏi qua phép thử sai với kết quả thử sai có thể cực kỳ tồi tệ là trả giá bằng mạng sống của bệnh nhân hoặc của chính thầy lang khi thử thuốc. Bên cạnh đó, việc dùng thiền định, dùng các nghi lễ tôn giáo như tục cúng ma kết hợp với các loại thảo dược hay đơn giản hơn là quan sát các loài khỉ và các loài thú sử dụng các loại cây thế nào để trị bệnh… chính là cách để các thầy lang sử dụng liệu pháp thiên nhiên.
Liệu pháp tự nhiên kết hợp kiến thức hàng thế kỷ về các liệu pháp tự nhiên với những tiến bộ hiện tại trong hệ thống hiểu biết về sức khỏe và con người.
Vào thế kỷ 18, 19, liệu pháp tự nhiên được phát triển mạnh hơn nhờ triết lý, kỹ thuật, khoa học… nhằm hỗ trợ sức khỏe và quá trình tự phục hồi.
Thủy trị liệu của Vincent Priessnitz (1799-1851) và Cha Sebastian Kneipp (1821-1897) ở châu Âu, và John Harvey Kellogg (1852-1943) ) ở Bắc Mỹ; phương pháp Thomsonian của Samuel Thomson (1769-1843), các phương pháp chữa bệnh tự nhiên của Tiến sĩ Louis Kuhne (1823-1907), Tiến sĩ Arnold Rickli (1823-1926) và Tiến sĩ Henry Lindlahr (1862-1924) nhấn mạnh lối sống lành mạnh, ánh sáng mặt trời và không khí trong lành, ăn chay và giải độc; vi lượng đồng căn, xuất phát từ Christian Friedrich Samuel Hahnemann (1755-1843); Y khoa chiết trung của Dr Wooster Beach (1794-1868), sử dụng các loại thuốc thực vật; Triết lý chủ nghĩa sinh tồn cho rằng cơ thể có trí thông minh bẩm sinh và chỉ cần hợp tác với các năng lực chữa bệnh tự nhiên từ Tiến sĩ Andrew Taylor Still (1828-1917), chỉnh hình được phát triển bởi Daniel David Palmer (1845-1913). Ở Bắc Mỹ, Tiến sĩ Benedict Lust được mô tả là thành lập bệnh viện tự nhiên vào năm 1902. Liệu pháp tự nhiên đã được phát triển ở các vùng khác nhau của châu Âu và Bắc Mỹ từ những năm 1920, phụ thuộc vào lịch sử, nhu cầu khách hàng về y học cổ truyền và các loại thuốc bổ sung và thay thế.
Từ giữa những năm 1960 đến thập niên 1980, liệu pháp tự nhiên đã đi vào thời kỳ phục hưng vì công chúng ở nhiều nơi trên thế giới đã trở nên thất vọng với Tây y và quan tâm nhiều hơn đến các thực hành chăm sóc sức khỏe toàn diện kết hợp lối sống lành mạnh cũng như khuyến khích sức khỏe và phòng bệnh